Công trình kiến trúc Kiến_trúc_Đà_Lạt

Kiến trúc công cộng

Viện Sinh học Tây Nguyên, trước kia là tu viện Dòng Chúa cứu thế, xây dựng từ năm 1948 đến năm 1952.

Từ khi ra đời, Đà Lạt đã sớm trở thành một thành phố du lịch danh tiếng và cũng từng có những khoảng thời gian giữ vai trò hành chính quan trọng. Vì thế, trong thành phố ngày nay có thể thấy không ít những công trình công cộng và công sở mang kiến trúc giá trị, phần nhiều được xây dựng dưới thời thuộc địa. Trong số đó, nổi bật hơn cả là các công trình: ga Đà Lạt, Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt, Viện Sinh học Tây Nguyênchợ Đà Lạt. Một điểm khác biệt với những thành phố khác, nhiều cơ quan hành chính của Đà Lạt cũng như tỉnh Lâm Đồng được đặt trong các ngôi biệt thự Pháp xinh đẹp, vốn xuất hiện rất nhiều trong khắp thành phố.

Nằm trên một ngọn đồi cao phía bắc thành phố, Viện Sinh học Tây Nguyên vốn là tu viện Dòng Chúa cứu thế, xây dựng từ năm 1948 và hoàn thành năm 1952. Con đường chính dẫn vào viện dài hơn 500 mét, từ phía đường Dankia xuyên qua rừng thông, chạy dọc phía sau công trình rồi vòng tới khoảng sân trước.[40] Viện Sinh học Tây Nguyên mang phong cách kiến trúc hiện đại nhưng vẫn có bố cục hình khối đối xứng kinh điển. Quy mô của tòa nhà tương đối đồ sộ, gồm bốn tầng và một tầng hầm nằm ở phía sườn đồi thấp. Mặt ngoài công trình phần lớn được ốp đá, đem lại một cảm giác rất kiên cố và bề thế.[41] Các ô cửa vuông vức, những đường nét trang trí đơn giản, mạnh mẽ, tạo cho tòa nhà dáng vẻ nghiêm nghị, phù hợp với chức năng tu viện và công sở. Lối vào chính được nhấn mạnh bằng một khối mái đón vươn ra xa, đỡ bởi hai trụ xây đá kiểu vững chắc. Phía trên đỉnh trang trí một cây thánh giá và dòng chữ tiếng La Tinh đắp nổi, câu châm ngôn của Dòng Chúa cứu thế, Copiosa Apud Eum Redemptio, có nghĩa Ơn Cứu chuộc nơi Người Chứa chan. Vào thời kỳ xây dựng, tu viện Dòng Chúa cứu thế được trang bị những tiện nghi kỹ thuật rất hiện đại, sử dụng hầm khí sinh học để cung cấp khí đốt và hệ thống bơm lấy nước từ thung lũng suối đưa lên công trình. Bên trong tu viện được bố trí ấm cúng và trang nghiêm theo lối tu viện châu Âu.[41] Không như những công sở khác, Viện Sinh học Tây Nguyên ngày nay còn là một địa điểm du lịch, nơi trưng bày các mẫu động thực vật, đặc biệt các loài lan của vùng Tây Nguyên.[40]

Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt nằm ở số 14 đường Yersin, không xa Trường Cao đẳng Sư phạmnhà ga thành phố. Công trình được xây dựng từ năm 1939 và hoàn thành vào năm 1943, trụ sở của Sở Địa dư Đông Dương cũ. Khuôn viên của Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt rộng 30.670 mét vuông, nằm trên một sườn đồi dốc thoải, thấp hơn so với mặt đường Yersin. Tòa nhà chính là một công trình quy mô đồ sộ, mang sắc thái của một cơ quan hành chính và có hình thức thể hiện theo phong cách kiến trúc hỗn hợp.[42] Toàn bộ công trình gồm ba tầng: tầng hầm dùng làm kho bản đồ, tầng trệt dành cho các phòng hành chính và tầng hai là các phòng kỹ thuật. Ngoài ra, còn một tầng áp mái được dùng làm kho phụ. Mặt bằng tòa nhà ảnh hưởng bởi kiến trúc cổ điển với hai trục đối xứng và tổ hợp theo kiểu hành lang giữa. Ở tầng trệt, tiền sảnh và phòng tiếp khách chiếm vị trí trung tâm, kế đó tới hai dãy phòng hành chính nằm hai bên hành lang, kết thúc bởi hai khối cầu thang bố trí đối xứng hai đầu.[43] Trên tầng hai, các phòng kỹ thuật chiếm một không gian rộng lớn, được trang trí hệ vòm cuốn tại các bước nhịp theo phong cách kiến trúc Roman. Trên mặt đứng của công trình, những phân vị ngang được thể hiện rõ nét. Dưới tầng trệt, mảng tường lớn chính giữa được xây bằng gạch đất nung với năm cửa sổ vòm kích thước lớn.[42] Tầng hai và hai khối nhà hai bên bố trí những khung cửa sổ vuông vức đều nhau. Kết nối giữa sảnh chính với sân là những bậc thang đặt trên hệ kết cấu vòm bằng đá, tạo nên một nét đặc sắc của công trình, khác biệt với những công trình hành chính thông thường khác. Toàn bộ tường tòa nhà xây bằng gạch đá dày gần một mét, mái lợp ngói với độ dốc khá lớn theo kiểu kiến trúc vùng Normandie, mang lại cảm giác uy nghi, quyền lực, phù hợp với tính chất của một công trình hành chính quốc gia.[43] Công trình bị thiệt hại nặng nề trong một trận cháy lớn đầu tháng 6 năm 2014. Toàn bộ phần mái của khối nhà phải đã bị lửa thiêu rụi.[44]

Nhà ga xe lửa Đà Lạt, xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, ngày nay trở thành một địa điểm du lịch.

Nhà ga xe lửa Đà Lạt được khởi công xây dựng năm 1932 và hoàn thành vào năm 1938, là nhà ga cuối của tuyến đường sắt Tháp Chàm–Đà Lạt. Công trình do kiến trúc sư Revéron thiết kế với khái niệm sáng tác theo hình thức kiến trúc Anglo-Norman mới, chịu nhiều ảnh hưởng từ trào lưu kiến trúc hiện đại.[45] Kiến trúc sư Moncet, người giám sát công trình, sau đó đã hoàn chỉnh thêm một số chi tiết của hồ sơ thiết kế. Ga Đà Lạt có chiều dài 66 mét, chiều rộng 11,5 mét và chiều cao đại sảnh 11 mét, nằm trên một khu vực bằng phẳng, rộng rãi cạnh đường Quang Trung. Mặt bằng công trình được tổ chức trên nguyên tắc đối xứng qua một trục vuông góc với mặt tiền, gồm một sảnh lớn 10 x 37 mét chính giữa và các phòng phụ nối dài sang hai bên.[45] Bố cục đối xứng còn thể hiện ở các chi tiết kiến trúc như những mái đỏ cao vút, những phần mái gấp, phần mái bẻ góc, những ô cửa sổ và bức tường xây bằng đá chẻ tới ngang bệ cửa.[46] Nhìn bề ngoài, chi tiết gây ấn tượng nhất của nhà ga là hệ thống mái với ba chóp mái tiếp nối liền nhau chạy suốt từ đỉnh xuống bờ mái đón ở lối vào sảnh chính. Vuông góc với ba mái ngang này là hai mái chạy dọc về hai phía, bẻ góc ở phần rìa mái. Một hệ thống diềm mái bao quanh công trình, nối liền với hai mái đón phía trước. Tương ứng với ba chóp mái là ba cửa sổ với nhiều ô kính nhỏ, riêng chóp mái giữa còn trang trí một đồng hồ và dòng chữ DALAT khá lớn.[46] Trừ hai mái đón, hầu như tất cả các chi tiết của mặt trước nhà ga đều có thể tìm thấy ở mặt sau, nơi hành khách lên xuống tàu. Không gian nội thất, phòng chờ cho hành khách, được chiếu sáng lung linh bởi các ô cửa kính nhiều màu ở phần chân mái và chóp mái.[47] Kiến trúc, kích thước và cách bố trí của ga Đà Lạt có nhiều điểm tương đồng với nhà ga thành phố Deauville, vùng Normandie, miền Bắc nước Pháp.[48] Do cuộc chiến tranh Việt Nam, tuyến đường sắt Tháp Chàm–Đà Lạt ngừng hoạt động vào năm 1972. Tuy vậy, từ năm 1991, nhà ga cùng với đoạn đường sắt Đà Lạt–Trại Mát được khôi phục để phục vụ hoạt động du lịch. Ga Đà Lạt được xem như một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng nhất của thành phố, và cũng nằm trong số những nhà ga đẹp nhất Việt Nam.[49]

Kiến trúc tôn giáo

Đà Lạt vốn là một thành phố đa dạng về tôn giáo với sự hiện diện của hầu hết những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Dù tuổi đời chỉ hơn một thế kỷ, nhưng Đà Lạt đã xây dựng được cho mình hàng trăm ngôi chùa, thiền viện, nhà thờ và tu viện nằm rải rác khắp thành phố.[50] Nhìn chung, kiến trúc các cơ sở tôn giáo tại Đà Lạt không có sự khác biệt lớn so với những vùng miền khác. Tuy vậy các công trình ở đây vẫn có được nét riêng thông qua việc tổ chức không gian kiến trúc và sự phối trí hài hòa giữa thiên nhiên với công trình nhân tạo.[51]

Thiền viện Trúc Lâm, một quần thể kiến trúc Phật giáo nằm bên hồ Tuyền Lâm, khánh thành năm 1994.

Một trong những ngôi chùa lâu đời và nổi tiếng nhất của Đà Lạt là chùa Linh Sơn, nằm ở số 120 đường Nguyễn Văn Trỗi. Ngôi chùa này là một quần thể kiến trúc bao gồm nhiều hạng mục lớn nhỏ phân bố trong một khoảng không gian chừng 4 hecta, trên một ngọn đồi cao không xa trung tâm thành phố.[52] Chùa Linh Sơn có hai lối vào, một lối từ phía ngã ba đường Bùi Thị Xuân, một lối gồm những bậc thang nhỏ dẫn từ chân đồi lên tới khoảng sân tiền điện. Tòa chính điện gồm hai ngôi nhà nối liền nhau theo hình chữ Đinh. Không xa bên phải là một tòa bảo tháp hình bát giác, phía sau là Tổ đường thờ Bồ Đề Đạt Ma, cùng chư hương linh tăng sỹ và Phật tử.[53] Hai bên lối vào tiền sảnh trang trí hai tượng rồng nằm uốn khúc, há miệng. Bốn trụ lớn trước chính điện tạo thành ba cửa vào, phía trên là một mảng trang trí hoa văn hình chữ Vạn cách điệu. Bên phải tiền sảnh đặt tượng Hộ pháp Vi Đà, bên trái đặt tượng Tiêu Diện Đại Sỹ.[53] Trong chính điện thờ tượng Phật Thích Ca bằng đồng tọa trên tòa sen, cao 1,8 mét. Trong khuôn viên của chùa còn có phòng phát hành kinh sách, nhà vãng sinh và một giảng đường lớn.[54] Nằm trên núi Phụng Hoàng cạnh hồ Tuyền Lâm, Thiền viện Trúc Lâm được Hòa thượng Thích Thanh Tứ khởi lập vào năm 1993 và hoàn thành vào năm 1994. Công trình là một quần thể kiến trúc rộng lớn, tọa lạc trên một khoảng không gian 24 hecta, được chia làm bốn khu vực: khu ngoại viện, khu tịnh thất hòa thượng, khu nội viện tăng và khu nội viện ni.[55] Từ phía hồ Tuyền Lâm, một con đường dốc quanh co giữa rừng thông, qua ba cổng với 140 bậc thang đá dẫn đến chính điện. Tòa chính điện là một công trình kiến trúc trang nhã, rộng 192 mét vuông, mái kép, lợp ngói men vàng. Không như những ngôi chùa khác, phần nóc mái chỉ trang trí một biểu tượng bánh xe chuyển pháp luân, còn các đầu đao cong vút lên mềm mại, hoàn toàn vắng bóng những trang trí long, lân, quy, phượng. Bên trong, giữa điện thờ tượng Phật Thích Ca Mâu Ni cao 2 mét, tay phải cầm cành hoa sen.[56] Chung quanh phía trên chính điện là những bức phù điêu chạm khắc tám tướng thị hiện của đức Phật và các bao lam, án thờ bằng gỗ được chạm khắc công phu. Bao quanh tòa chính điện là những công trình tham vấn đường, phòng trưng bày, nhà khách, thư viện, nhà tổ và các lầu chuông, gác trống, xen giữa bởi những lối đi nhỏ rợp bóng mát. Trong khuôn viên khu ngoại viện còn có hồ Tĩnh Tâm, đồi Thanh Lương, nhà khách nữ vãng lai và phía sau là điểm tới của hệ thống Cáp treo Đà Lạt.[56]

Domaine de Marie, nhà thờ Thiên Chúa giáo nằm trên đồi Mai Anh, phía bắc thành phố.

Những nhà thờ, nhà nguyện Thiên Chúa giáo là các công trình tôn giáo xuất hiện sớm nhất tại Đà Lạt. Năm 1917, Linh mục Nicolas Couvreur đã tới thị tứ hoang vắng này để thực hiện sứ mệnh mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Thiên Chúa giữa những người Pháp và một ít người Việt trong buổi đầu xây dựng thành phố. Vào năm sau đó, một dưỡng viện giáo đồ đã được dựng lên trên một quả đồi ở khu vực trung tâm thị tứ.[57] Tuy vậy, phải đợi đến những thập niên từ 1930 tới 1960, các nhà thờ và tu viện có kiến trúc quy mô mới bắt đầu xuất hiện. Nhà thờ chính tòa Đà Lạt được khởi công xây dựng vào năm 1931, tới ngày 25 tháng 1 năm 1942 mới chính thức được khánh thành. Công trình mang kiến trúc nhà thờ miền Bắc nước Pháp với quy mô khá đồ sộ, chiều dài 65 mét, nơi rộng nhất 14 mét và tòa tháp chuông cao 47 mét. Được xây dựng trên một chỏm đồi thấp nên nền đất gian cung Thánh của nhà thờ cao hơn phần nền đất phía tháp chuông, vì thế lối vào cửa được tạo bởi những bậc thang bộ ở chính giữa và hai đường vòng lên đối xứng hai bên.[58] Tháp chuông được xây phía trên chính lối vào, đỉnh mái mang hình cây thánh giá, phía trên gắn một mũi tên gió hình con gà bằng đồng. Trên tầng áp mái của gian cung Thánh, các cửa sổ trang trí bởi 70 tấm kính màu. Tường nhà thờ còn được gắn các bức phù điêu với kích thước 1 x 0,8 mét do nhà điêu khắc Xuân Thi thể hiện.[58] Bề ngoài công trình sơn màu hồng sẫm, giúp tôn thêm vẻ trang nghiêm của một ngôi thánh đường. Tọa lạc trên ngọn đồi phía tây bắc thành phố, thuộc giáo xứ Mai Anh Đà Lạt, Nhà thờ Domaine de Marie được xây dựng từ năm 1940 đến năm 1943. Kiến trúc nhà thờ là một sự pha trộn hài hòa giữa phong cách kiến trúc Tây phương và kiến trúc dân gian của cư dân bản địa. Công trình mang dáng dấp của một ngôi nhà rông, không có tháp chuông, đỉnh nhọn của nóc mái là nơi gắn thánh giá.[41] Lối vào thánh đường được che phủ bởi một mái phụ, hai lối đi lên từ hai phía với những bậc thang gợi đến nét kiến trúc nhà sàn của người Thượng. Tường nhà thờ trang trí nhiều cửa sổ nhỏ sâu vào bên trong, phần chân tường cho tới bệ cửa xây bằng đá chẻ theo phong cách kiến trúc Normandie. Các cửa sổ cũng như cửa sổ mái tạo bởi những tấm kính màu, giúp không gian bên trong cung Thánh lung linh và huyền ảo. Phía sau nhà thờ còn ba dãy nhà ba tầng của tu viện Dòng nữ tu Bắc Ái.[41]

Kiến trúc trường học

Khối nhà hành chính của trường Cao đẳng Sư phạm, một công trình hình thức tân cổ điển Pháp.
Trường Dân tộc Nội trú, trước kia là trường nữ tu Couvent des Oiseaux, được xây dựng năm 1934.

Từ thời Pháp thuộc cũng như dưới thời Việt Nam Cộng hòa, thành phố Đà Lạt luôn được định hướng không chỉ trở thành một đô thị nghỉ dưỡng mà còn là một trung tâm giáo dục quan trọng. Các kiến trúc sư người Pháp cũng như người Việt đã xây dựng ở đây không ít những ngôi trường mang kiến trúc đặc sắc và giá trị, phần nhiều xuất hiện dưới thời thuộc địa và trong giai đoạn Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam. Đa số các ngôi trường lớn ở Đà Lạt đều mang phong cách kiến trúc tương đối giống nhau, mặt bằng ổn định gồm các dãy lớp học một hoặc hai tầng, mái lợp ngói và rầm chìa gỗ có nguồn gốc từ kiến trúc địa phương của Pháp.[59] Những ngôi trường xây dựng giai đoạn sau do các kiến trúc sư người Việt thiết kế thường có đường nét thanh mảnh hơn và mang dáng dấp hiện đại.[24]

Công trình kiến trúc trường học nổi tiếng nhất của thành phố là Trường Cao đẳng Sư phạm, nguyên là trường Trung học Yersin, được xây dựng từ năm 1929 và hoàn thành năm 1941. Khuông viên của ngôi trường trước đây rộng 22,3 hecta, nằm trên đỉnh một ngọn đồi tương đối bằng phẳng gần hồ Xuân Hương, trong đó toàn bộ khu vực chính khoảng 8 hecta.[60] Kiến trúc sư Moncet khi thiết kế công trình đã có những vận dụng táo bạo về mặt kích thước của kết cấu, cũng như việc sử dụng gạch ép ốp tường và ngói thạch bản xanh đen cho hệ thống mái.[61] Trường Trung học Yersin có kiến trúc độc đáo hiếm thấy, ảnh hưởng bởi hình thức kiến trúc tân cổ điển.[60] Tòa nhà chính nằm uốn mình theo một đường cung mềm mại, vòng cung ngoài dài 90 mét, vòng cung trong dài 77 mét, ôm lấy một khoảng sân rộng. Tòa tháp chuông cao 54 mét, lợp ngói thạch bản, vươn lên mạnh mẽ như hình một cây bút giữa rặng thông xanh, soi bóng xuống mặt hồ Xuân Hương.[62] Ở mặt đứng tầng trệt, cứ mỗi bước cột lại có một vòm cung tròn xây bằng gạch đất nung với tỷ lệ hài hòa, trong khi đó các tầng lầu được trang trí bởi hàng cột trắng ghép từng đôi, tất cả tạo nên vẻ đẹp thanh thoát cho toàn khối nhà. Những nét cách tân còn thể hiện ở phần mái dốc, đuôi mái được bẻ góc cùng hệ thống cửa sổ mái.[62] Mặt bằng công trình được bố cục chặt chẽ, tổ hợp kiểu hành lang bên. Không gian tầng trệt để trống tạo thành sân chơi trong nhà với những cột tròn, khẩu độ 8 x 8 mét. Tầng lầu gồm các lớp học, bên ngoài mỗi lớp đều có tủ âm tường làm nơi để áo khoác, áo rét của học sinh.[60] Nếu đứng trên quan điểm của các nhà kiến trúc theo chủ nghĩa công năng thì việc lựa chọn một hình dáng cong mềm mại sẽ khiến các phòng học không được vuông vức, gần như dẫn đến một kết quả "hình thức phi công năng".[62] Cùng một trục với dãy nhà chính, nằm đối diện cổng vào là khối nhà hành chính. Công trình được thiết kế theo hình thức tân cổ điển Pháp, hai tầng gồm ba phần mái liên thông, mặt ngoài hoàn toàn đối xứng. Đối diện với tòa nhà chính qua khoảng sân rộng, hai dãy nhà nằm song song, mỗi dãy gồm một tòa nhà ba tầng và một tòa nhà hai tầng.[62] Các tòa nhà này có kết cấu và trang trí mặt đứng đơn giản, được dùng làm phòng học và ký túc xá cho học sinh. Quần thể kiến trúc còn được tiếp nối bởi một tòa nhà có quy mô nhỏ hơn dùng làm hội trường và phòng thí nghiệm, nằm ở cuối sân, vuông góc với hai dãy nhà song song.[62] Tổng thể công trình, các khối nhà hành chính, khối lớp học và phòng thí nghiệm kết thành một dạng kiến trúc Thụy Sĩ, nhưng riêng dãy nhà nghỉ, nhà giặt, phòng hội trường, nhà của hiệu trưởng và tổng giám thị... lại được thiết kế theo dạng kiến trúc thông dụng của các trường học ở Pháp.[61]

Nằm trên một quả đồi góc đường Huyền Trân Công Chúa – Hoàng Văn Thụ, thuộc Phường 5, Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Lâm Đồng vốn là trường nữ tu Couvent des Oiseaux được xây dựng năm 1934.[63] Công trình được thiết kế theo hình thức kiến trúc kết hợp, có thể tìm thấy những nét kiến trúc cổ điển xen lẫn những nét kiến trúc hiện đại. Khối nhà lớp học được thiết kế hai tầng, tổ hợp theo kiểu hành lang bên, nằm trải dài song song với đường Huyền Trân Công Chúa.[63] Ngoài mặt tiền, khối nhà chính giữa nhô ra với mái đón tạo lối vào chính, phía trên trang trí một chi tiết kiểu trán tường hình tam giác với dòng chữ đắp nổi "N.D du Lang Bian", tức Notre Dame du Lang Bian, một tên gọi khác của trường.[64] Tường ngoài tầng trệt của một khối được ốp đá với những cửa sổ hình cung gãy, các tầng trên có tường xây gạch và cửa sổ ô vuông. Sự kết hợp giữa nét thô giáp bên dưới và vẻ tinh tế phía trên này là một đặc trưng của kiến trúc Phục Hưng.[63] Phòng chờ ở sảnh chính rộng khoảng 30 mét vuông, có bậc cấp và hành lang dẫn vào phía trong, hàng lang sau đi vào lớp, nhà ngủ và nhà ăn.[64] Phía sau bố trí nhà ở của các nữ tu, giáo viên và nhà hiệu trưởng. Công trình bám theo dáng địa hình, vì vậy có sự giật cấp, tạo ra các không gian phong phú và sinh động. Phía trái cạnh trường còn có một nhà nguyện dành cho khoảng 200 người, kiến trúc theo kiểu Ogival, có một lầu chuông nhỏ, mặt bằng hình chữ nhật.[65] Trước đây, Couvent des Oiseaux là một ngôi trường dành cho con gái những gia đình giàu có không chỉ ở Việt Nam mà cả Liên bang Đông Dương.[64]

Năm 1957, Viện Đại học Đà Lạt được thành lập với cơ sở là Trường Thiếu sinh quân cũ, nằm trên một vùng đất rộng lớn phía bắc thành phố.[66] Trong chương trình chỉnh trang, kiến trúc sư Nguyễn Mỹ Lộc đã dựa trên quan niệm mới về thiết kế trường đại học của Hoa Kỳ, bố trí các công trình chức năng nằm phân tán trong không gian xanh yên tĩnh, kết nối bởi những con đường đầy bóng mát.[67] Hơn 40 công trình, đa số theo kiến trúc mới với mặt tường ốp đá, tạo nên một quần thể kiến trúc rộng lớn, nổi bật bởi nguyện đường Năng Tĩnh với tháp chuông hình khối tam giác vững chãi cao 38 mét.[68] Sau năm 1975, Trường Đại học Đà Lạt ra đời dựa trên cơ sở Viện Đại học cũ, giữ vai trò một trường đại học tổng hợp của vùng Tây NguyênNam Trung Bộ. Với nhu cầu mở rộng. những giảng đường, thư viện và nhà thể thao tiếp tục mọc lên trong những thập niên gần đây. Một vài công trình trong số này mang hình thức kiến trúc hoàn toàn khác biệt so với những kiến trúc cũ đã hiện hữu, vì vậy đã tạo nên hiện tượng tổng thể bị chia cắt đột ngột.[67] Tuy vậy, Đại học Đà Lạt vẫn được xem như một trong những trường đại học đẹp ở Việt Nam với cảnh quan kiến trúc mang nét đặc trưng riêng của thành phố.[68] Cũng dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, Giáo hoàng Học viện Pio X được xây dựng vào hoàn thành năm 1957, trở thành nơi đào tạo linh mục cho toàn miền Nam thời kỳ đó. Khác với Viện Đại học Đà Lạt, Giáo hoàng Học viện nằm gần trung tâm thành phố, trên một diện tích không quá lớn, và là nơi sinh hoạt và học tập của hàng trăm người.[69] Kiến trúc sư Tô Công Văn đã giải quyết bài toán bằng những khối nhà bốn tầng bố trí giật cấp theo địa hình sườn đồi và các phần phụ tận dụng khéo léo ở tầng hầm. Toàn bộ diện tích còn lại, hơn 80% là công viên cây xanh, sân thể thao, đường giao thông và đường đi dạo. Ngày nay, công trình này là Trung tâm Đào tạo của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nằm ở số 13 đường Đinh Tiên Hoàng.[69]

Toàn cảnh Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt.

Kiến trúc khách sạn

Khách sạn Dalat Palace, xây dựng năm 1916 và khánh thành năm 1922, một trong những công trình kiến trúc quy mô đầu tiên của Đà Lạt.Nhà hàng Thủy Tạ bên bờ hồ Xuân Hương

Khách sạn đầu tiên của Đà Lạt được xây dựng vào năm 1907, khi đó chỉ là một ngôi nhà gỗ đơn giản mang tên Sala, về sau đổi thành Hôtel du Lac, tức Khách sạn bên hồ, khi hồ Xuân Hương được tạo lập vào năm 1919. Cùng với thời gian, công trình này đã biến mất và vị trí đó ngày nay được thay thế bởi khách sạn Hàng Không nằm bên đường Hồ Tùng Mậu.[70] Năm 1916, với ý định trang bị cho thành phố một nơi đón tiếp du khách sang trọng và đầy đủ tiện nghi, Toàn quyền Ernest Roume cho xây dựng một đại khách sạn và Langbian Palace đã ra đời và được khai trương vào năm 1922.[70] Khách sạn, ngày nay mang tên Dalat Palace, chiếm trọn một quả đồi bên hồ Xuân Hương, khuôn viên rộng hơn 40 hecta với những vườn hoa, thảm cỏ, rừng thông. Dễ dàng nhận thấy công trình có lợi thế rất lớn về vị trí, nằm trong một khu vực được quy hoạch cho riêng mình, nhìn xuống nhà Thủy Tạ, hồ Xuân Hương, đồi Cù và phía xa là dãy núi Lang Biang xanh thẫm.[71] Một hệ thống bậc thang trải dài theo sườn đồi từ phía hồ Xuân Hương lên tới tận lối vào chính khiến công trình thêm phần uy nghi và duyên dáng. Khách sạn Dalat Palace mang hình thức kiến trúc hiện đại kết hợp trường phái cổ điển, gồm 3 tầng và phần tầng trệt nhô cao hơn mặt sân để tạo thêm một tầng hầm và lối vào với những bậc thang sang trọng.[72] Công trình có mặt ngoài đối xứng hoàn hảo, phát triển theo chiều dài, trong đó khối chính giữa nhô cao 3 tầng với hệ mái bằng, hai khối hai bên thấp hơn và mái lợp ngói. Những yếu tố hiện đại của mặt bằng lại được đặt trong hệ kết cấu bao che với những trang trí theo hình thức cổ điển. Mặt đứng được tô điểm bởi nhiều họa tiết trang trí trau chuốt trên khung cửa sổ, đặc biệt là phần sát mái. Khác với các khách sạn khác, Dalat Palace không có hệ thống ban công hay lô gia như vẫn thường gặp ở kiến trúc khách sạn.[72] Công trình kiến trúc nổi tiếng này không chỉ là một khách sạn sang trọng mà còn là một địa điểm gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử, nơi Hoàng đế Bảo Đại lần đầu gặp Hoàng hậu Nam Phương, cũng là nơi đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam từng lưu lại trong thời gian Hội nghị Đà Lạt năm 1946.[73]

Nằm trên đường Trần Phú, không xa Dalat Palace, khách sạn Dalat Hotel Du Parc được xây dựng vào năm 1922 theo phong cách kiến trúc hiện đại. Công trình gồm bốn tầng, lợp mái đỏ, nằm dọc theo con phố. Mặt bằng khách sạn có bố cục hợp khối hình chữ nhật, theo kiểu thức bố trí khách sạn kinh điển: hành lang ở giữa, hai dãy phòng hai bên hưởng đầy đủ ánh sáng và khí trời.[72] Một trục đối xứng vuông góc với sảnh chính, hai khối hai đầu hồi có kích thước mở rộng hơn. Không gian chính giữa của tầng trệt là đại sảnh có sa lông thư giãn tiếp khách. Những tầng trên, các phòng khách sạn nằm hai bên một hành lang giữa, đặc biệt mỗi phòng đều có một phòng đệm, tạo không gian chuyển tiếp đổi hướng tránh tầm nhìn trực tiếp vào giường ngủ.[72] Mặt đứng khách sạn được trang trí bởi những đường nét mạnh mẽ và vuông vức. Giống như Dalat Palace, khách sạn Hotel Du Parc không có hệ thống ban công. Phía trên tầng trệt, một hệ thống diềm mái lợp ngói đỏ nhô ra, thay thế cho các ô văng cửa sổ. Chi tiết này là một hình thức kiến trúc dân gian Việt Nam đã được đưa vào công trình.[60] Khách sạn Du lịch Công đoàn nằm bên đường Yersin, trên một ngọn đồi cạnh hồ Xuân Hương có diện tích hơn 15 hecta. Khác với Dalat Palace hay Dalat Hotel Du Parc, công trình này vốn là biệt thự của bác sĩ Lemoine xây dựng từ năm 1936, về sau trở thành một dưỡng đường tư. Kiến trúc tòa nhà mang dáng dấp của vùng Bretagne với hệ thống mái ngói đỏ dốc và các khối tường đầu hồi tam giác vững chãi và mạnh mẽ. Khá giống với Dalat Palace, Khách sạn Du lịch Công đoàn cũng được đặt trong một khuôn viên rộng nhiều cây xanh với tầm nhìn xuống hồ Xuân Hương, nhưng về hướng trung tâm thành phố.[60]

Kiến trúc dinh thự

Dinh I, Dinh IIDinh III, ba dinh thự lớn xây dựng trong khoảng thập niên 1920 và 1930, ngày nay đều là những công trình nổi tiếng của thành phố.

Trong những công trình kiến trúc tại Đà Lạt, có ba dinh thự lớn nằm trên ba ngọn đồi phía nam thành phố, được xây dựng trong khoảng thập niên 1920 và 1930, vốn dành cho những nhân vật đặc biệt quyền lực hoặc giàu có. Mỗi dinh thự là một quần thể kiến trúc với tòa nhà chính đồ sộ, ngự trị trên điểm cao nhất, khuôn viên rộng lớn bao trùm cả ngọn đồi cùng với những vườn hoa, bồn nước, lối đi dạo...[69] Tuy chịu ảnh hưởng bởi những hình thức kiến trúc khác nhau, nhưng các công trình này đều hòa hợp với thiên nhiên và trở thành điểm nhấn trong bức tranh cảnh quan thành phố.[49]

Dinh I tọa lạc trên một ngọn đồi cao 1.550 mét bên đường Trần Quang Diệu, có rừng thông bao quanh.[69] Tòa nhà được triệu phú người Pháp Robert Clément Bourgery xây dựng giữa thập niên 1920, sau đó được Hoàng đế Bảo Đại mua lại vào năm 1949 và sửa sang lại.[74] Đến năm 1956, nơi đây trở thành dinh thự dành riêng cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, tiếp tục được tu sửa và trang bị thêm một đường hầm thoát hiểm.[74] Sau năm 1975, tòa nhà được sử dụng làm nhà khách trung ương rồi giao lại cho công ty DRI khai thác.[75] Dinh I nằm giữa một rừng thông xanh, lối vào trải nhựa với hai hàng cây tràm thân trắng hai bên. Cuối con đường, một đảo hoa hình ô van chia lối đi làm hai ngả và gặp lại nơi sảnh đón chính của công trình. Dinh được xây dựng kiên cố, gồm một tầng hầm, một tầng trệt và một tầng lầu, trong đó nửa dưới của tầng trệt xây bằng đá chẻ.[75] Nhìn mặt ngoài, công trình ấn tượng nhờ mái ngói đỏ, tường sơn vàng và những cửa sổ gỗ màu xanh. Ở tầng trệt, các cửa sổ với vòm cung tròn đem lại cho tòa nhà một nét cổ điển, riêng cửa chính tuy cũng dạng vòm cung nhưng lại được kết hợp cùng một mái đón bằng ngang. Phía tầng trên, các cửa sổ cao rộng vuông vức, phần mái cũng có cửa sổ, bẻ góc ở đuôi và trang trí một vài ống khói.[75] Mặt bằng công trình được bố cục đối xứng với lối vào chính giữa, hệ thống cầu thang và hành lang mở ra hai bên.[76] Tầng trệt bao gồm một sảnh lớn, phòng tiếp khách, phòng họp... còn lầu trên, các phòng ngủ bao quanh một hành lang giữa. Chung quanh công trình chính còn một vài hạng mục kiến trúc khác như nhà dành cho ngự lâm quân, nhân viên phục vụ và một hệ thống sân vườn, đài phun nước, lối đi dạo... tạo thành một quần thể kiến trúc đẹp, sang trọng và hoàn chỉnh.[76]

Khác với hình thức kiến trúc tân cổ điển của Dinh I, Dinh IIDinh III chịu ảnh hưởng của trào lưu cách tân kiến trúc ở châu Âu thập niên 1920 và thập niên 1930. Kiến trúc lúc này bắt đầu phi đối xứng và đi vào yếu tố hình khối, bố cục tự do.[76] Dinh II và Dinh III là những công trình tương đối đồ sộ với mái bằng, nhiều hình khối, bố cục cân đối. Không gian kiến trúc bên trong và bên ngoài hòa lẫn vào nhau qua các lối đi, những cửa sổ kính khung thép hay các sân vườn có cột trụ bao quanh để tạo thành những không gian chuyển tiếp.[76] Dinh II, hay còn gọi là Dinh Toàn quyền, là dinh thự mùa hè của Toàn quyền Jean Decoux, được xây dựng từ năm 1933 đến năm 1937. Công trình như một tòa lâu đài nhỏ với 25 phòng bài trí sang trọng, nằm trên đồi thông cạnh đường Trần Hưng Đạo, nhìn xuống hồ Xuân Hương.[77] Sự cách tân kiến trúc thể hiện ở các mái bằng đồ sộ, bố cục hình khối lớn theo dạng cân bằng không đối xứng.[78] Mặt bằng cũng mặt đứng của công trình đều được giải phóng khỏi thế đối xứng nghiêm nghị của trường phái cổ điển, đi vào khai thác các bố cục hình khối tự do.[77] Công trình có công năng hỗn hợp, vừa là nơi ở, cũng là nơi tiếp khách và làm việc, nên mặt bằng được bố trí khá hiện đại. Ở tầng trệt, các phòng làm việc, phòng tiếp khách gắn liền với những tiểu kiến trúc công viên, còn tất cả các phòng ngủ được nhóm lại xung quanh một đại sảnh.[78] Phía cuối sảnh, một cầu thang lớn dẫn đến các phòng có bố cục rất hợp lý với đầy đủ tiện nghi được sắp xếp hài hòa. Toàn bộ tầng lầu được dành riêng cho sinh hoạt gia đình. Mái hiên lối vào chính có hình vòng cung, đồng thời giữ chức năng sân trời cho tầng hai.[77] Mặt đứng công trình đơn giản với những mảng, hình khối lồi lõm một cách linh động, các đầu máng xối cong mang lại nét đặc trưng của trào lưu hiện đại. Đặc biệt, Dinh II sử dụng vật liệu đá rửa màu sáng để phủ tường ngoài và các bộ phận vốn chất liệu gỗ thì được thay thế bằng kim loại mang từ Pháp.[78] Bên phải công trình gắp với một khoảng sân lộ thiên có đặt đài phun nước, có tượng thần Vệ Nữ sơn nhũ vàng. Giống như Dinh I, sau năm 1975, Dinh II trở thành nhà khách trung ương và hiện nay giữ vai trò nhà khách của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng.[77]

Dinh III là biệt điện của Hoàng đế Bảo Đại, vị quân vương cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Công trình nằm trên một ngọn đồi cao 1.539 mét bên đường Triệu Việt Vương, vị trí mà kiến trúc sư Ernest Hébrard khi quy hoạch thành phố dự định dành cho Dinh Toàn quyền.[79] Dinh III, cũng thường được gọi Dinh Bảo Đại, xây dựng trong khoảng từ năm 1933 đến năm 1938, do hai kiến trúc sư Paul Veysseyre và Huỳnh Tấn Phát thiết kế. Về hình thức kiến trúc, Dinh III có nhiều nét tương đồng với Dinh II, đều chịu ảnh hưởng bởi trào lưu cách tân kiến trúc ở châu Âu.[80] Công trình đồ sộ với hệ thống mái bằng, các mảng - khối được bố cục cân đối. Phía trước sảnh chính cũng có một mái hiên hình vòng cung vươn ra đón khách khi xe đỗ.[81] Tầng trệt được bố trí phòng khách, các phòng làm việc, văn phòng của vua Bảo Đại, thư viện, các phòng giải trí và một phòng ăn lớn. Tầng lầu được dành toàn bộ cho sinh hoạt gia đình với các phòng ngủ của vua Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương, các công chúa và hoàng tử cùng những phòng sinh hoạt.[80] Một sân thượng mang tên Vọng Nguyệt Lâu nối với phòng ngủ của vua Bảo Đại được sử dụng làm nơi ngoạn cảnh. Bên cạnh dinh, phía cổng vào có một vườn hoa nhỏ theo kiểu vườn hoa ở các cung điện Pháp, bố cục theo hình kỷ hà.[79] Khác với Dinh I và Dinh II, Dinh III ngày nay trở thành địa điểm du lịch, mở cửa đón du khách tới thăm.

Kiến trúc biệt thự

Biệt thự số 16 Trần Hưng Đạo, còn mang tên biệt thự Hoa hồng, một hình thức hiện đại hóa kiến trúc Bretagne.Biệt thự Nguyễn Hữu Hào, nay thuộc về Bảo tàng Lâm Đồng

Bên cạnh các công trình kiến trúc lớn, hệ thống biệt thự ở Đà Lạt cũng góp phần quan trọng trong việc làm phong phú cảnh quan kiến trúc và tạo nên một trong những nét đặc trưng hấp dẫn của thành phố.[80] Các ngôi biệt thự ở đây được dựng lên với những kiểu dáng vô cùng đa dạng, nhưng tổng thể vẫn giữ được tính thống nhất và hài hòa với thiên nhiên.[82] Những ngôi biệt thự xây dựng từ năm 1940 trở về trước hầu hết đều do người Pháp thiết kế. Từ sau năm 1940, cùng với các kiến trúc sư người Pháp, một số kiến trúc sư người Việt được đào tạo ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương cũng tham gia thiết kế xây dựng nhiều công trình.[83] Để bảo vệ cảnh quan thành phố, các kiến trúc sư người Pháp đã đưa ra những nguyên tắc chung cho việc thiết kế và xây dựng biệt thự. Các ngôi biệt thự được xây dựng bám theo dạng địa hình, nằm trên những đường đồng mức, có khuôn viên cây xanh, có tầm nhìn đẹp và không được quá gần nhau.[83] Để tránh phá vỡ cảnh quan, số tầng của biệt thự được quy định không quá ba tầng, kể cả tầng trệt. Trong các đồ án quy hoạch thành phố trước đây, những khu đất phân lô dành cho biệt thự luôn được quy định rõ. Tất cả các công trình xây dựng đều phải do kiến trúc sư thiết kế và chịu trách nhiệm về thẩm mỹ. Mọi dự án xây dựng đều phải trải qua sự xét duyệt của phòng quy hoạch đô thị thuộc Sở Công chánh.[83] Những tòa biệt thự có diện tích phân lô hơn 1.500 mét vuông dành cho tầng lớp thượng lưu ngày nay có thể tìm thấy trên các con đường Trần Hưng Đạo, Lê Hồng Phong, Lê Lai hay Nguyễn Du. Hầu hết các biệt thự này nằm xa trục đường chính và được bố trí cách nhau từ vài chục tới vài trăm mét.[84] Những biệt thự hạng trung bình có diện tích phân lô nhỏ hơn 1.000 mét vuông và các ngôi nhà biệt lập có sân vườn được dành cho tầng lớp trung lưu và công chức, phổ biến tại trung tâm thành phố, trên các con đường như Hai Bà Trưng, Hoàng Diệu, Trần Bình Trọng, Yết Kiêu hay Bùi Thị Xuân.[85]

Về hình thức kiến trúc, các biệt thự xây dựng trước năm 1954 chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc địa phương Pháp. Những chủ nhân người Pháp sống xa quê hương đã xây dựng những ngôi nhà này để gợi lại hình bóng quê hương của họ.[83] Tuy vậy, các hình thức kiến trúc địa phương Pháp du nhập vào Đà Lạt được thể hiện dưới nhiều hình thức: một số theo nguyên mẫu, một số khác thay đổi để phù hợp với khí hậu địa phương, và một số kết hợp với kiến trúc Việt Nam tạo nên một hình thức kiến trúc mới. Những ngôi biệt thự kiến trúc miền Bắc nước Pháp xuất hiện rất nhiều tại Đà Lạt, hầu hết dưới dạng nguyên mẫu bởi khí hậu thành phố có nhiều điểm tương đồng khí hậu miền Bắc nước Pháp.[83] Nếu phân loại cụ thể, có thể thấy các biệt thự của Đà Lạt mang năm phong cách kiến trúc chủ yếu: kiến trúc vùng Normandie, kiến trúc vùng Bretagne, kiến trúc vùng Provence, kiến trúc xứ Basque và kiến trúc vùng Savoie.[86]

Biệt thự số 20 đường Trần Hưng Đạo, mang phong cách Normandie, một ví dụ điển hình cho kiến trúc biệt thự của Đà Lạt.

Những biệt thự phong cách kiến trúc Normandie có một hoặc hai tầng, khung sườn nhà bằng gỗ tốt, xây chèn gạch, phần tường dưới bệ cửa sổ đôi khi được xây bằng đá chẻ hoặc bằng gạch nhỏ để trần không tô trát. Khung sườn ngôi nhà có tỷ lệ cân xứng dựa trên mặt bằng hình chữ nhật đơn giản.[86] Các biệt thự này thường có hai hoặc bốn mái, các mái được lợp ngói phẳng cỡ nhỏ, độ dốc lớn và bẻ góc, trang trí bởi cửa số mái hình tam giác.[87] Những nét đặc trưng của phong cách kiến trúc Normandie có thể thấy ở những biệt thự số 22 đường Nguyễn Viết Xuân hay số 14, 18 và 20 đường Trần Hưng Đạo. Các biệt thự kiến trúc vùng Bretagne thường có hình khối nằm ngang, đầy vững trãi. Vật liệu xây dựng được lấy ở chính địa phương, mái mặt bên sử dụng ngói thạch bản, cửa chính và cửa sổ thường có khung viền chất liệu đá chẻ kích thước lớn.[87] Tường đầu hồi có dạng hình tam giác, che kín bờ mái dốc và thường gắn kết với ống khói lò sưởi. Cửa số mái hình tam giác có nhiệm vụ lấy ánh sáng cho tầng lầu hoặc cho tầng áp mái. Biệt thự số 16 đường Trần Hưng Đạo, còn mang tên biệt thự Hoa hồng, là một hình thức hiện đại hóa kiến trúc vùng Bretagne.[86]

Phong cách kiến trúc vùng Provence chịu ảnh hưởng của kiến trúc Tây Ban Nha và vùng Địa Trung Hải. So với miền Bắc nước Pháp, vùng Provence có khí hậu nóng và ít mưa, vì thế kiểu kiến trúc này khi du nhập vào Đà Lạt đã có nhiều biến đổi để phù hợp với khí hậu địa phương. Các ngôi nhà phong cách Provence thường bố cục nằm ngang, mặt bằng tự do, mái lợp ngói hoặc mái bằng. Ở những ngôi nhà lợp ngói, độ dốc của mái tương đối thoải, sử dụng ngói ống hình máng lợp kiểu âm dương, mái không vươn quá xa và thường được trang trí một hai ống khói.[86] Một trong những ví dụ của kiểu kiến trúc Provence là ngôi biệt thự số 11 đường Lê Hồng Phong. Phong cách kiến trúc vùng Savoie và xứ Basque mang nhiều điểm tương đồng. Các ngôi nhà này có hình thức hai mái, mái vươn xa khỏi tường đầu hồi, và tường đầu hồi được sử dụng làm mặt chính của kiến trúc. Với phong cách xứ Basque, hai mái nhà không đều nhau, mái dài đôi khi gần sát xuống mặt đất. Các mái vươn xa khỏi tường đầu hồi và được nâng đỡ bởi các rầm chìa bằng gỗ. Tường nhà xây gạch, sơn màu nhạt với nhiều cửa sổ nhỏ bằng gỗ màu sơn sẫm.[86] Những biệt thự kiểu Savoie thường xây tầng dưới, tầng trên bằng gỗ có ban công dài suốt mặt tường, mái độ dốc vừa phải và vươn rất rộng trên tường đầu hồi để che chở cho các cửa đi, cửa sổ và cả ban công.[87]

Biệt thự số 20 đường Trần Hưng Đạo là một trong những ví dụ điển hình cho kiến trúc biệt thự tại Đà Lạt. Giống như nhiều ngôi nhà khác cùng con phố, biệt thự số 20 được xây dựng dành cho tầng lớp thượng lưu, có khuôn viên rộng rãi và nằm cách xa đường chính. Công trình chịu ảnh hưởng của kiến trúc Normandie, mang một vẻ đẹp mạnh mẽ và thanh nhã. Chi tiết gây ấn tượng nhất của tòa biệt thự chính là hệ mái khối tích lớn, lợp ngói đất nung.[88] Các sống mái đều được bẻ góc với nhiều kiểu cách đa dạng, một ống khói vươn cao giúp hệ mái có được nét duyên dáng hoàn hảo.[88] Nơi mặt tiền, một phần hệ mái kéo dài theo chiều xiên dốc mái xuống tận diềm mái của tầng trệt, một đặc điểm ít gặp trong phong cách kiến trúc địa phương Pháp. Tường ngoài tầng trệt một phần được xây bằng đá chẻ ốp theo dạng tổ ong. Hệ khung suờn chịu lực bằng bê tông nằm ở tường của tầng hai. Ngôi nhà còn được trang trí bởi rất nhiều cửa sổ và các rầm chìa gỗ màu xanh. Kiểu dáng kiến trúc của công trình mang vẻ đẹp mạnh mẽ, hài hòa và hoàn toàn phù hợp với điều kiện khí hậu lạnh của miền Bắc nước Pháp cũng như của Đà Lạt.[88] Cùng với một số biệt thự khác trên đường Trần Hưng Đạo, biệt thự số 20 được thành phố Đà Lạt giao lại cho khách sạn Dalat Cadasa Resort trùng tu và khai thác, như một trong những nỗ lực trong việc bảo tồn di sản kiến trúc của thành phố.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kiến_trúc_Đà_Lạt http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/lua-bao-trum-... http://web.archive.org/web/20100710152513/http://w... http://web.archive.org/web/20120808033755/http://w... http://web.archive.org/web/20121028033114/http://w... http://web.archive.org/web/20140221171406/http://w... http://web.archive.org/web/20140221190340/http://w... http://baolamdong.vn/xahoi/201012/da-Lat-Hoi-sinh-... http://books.google.com.vn/books?id=B0jxZwEACAAJ http://books.google.com.vn/books?id=bO2tQwAACAAJ http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/dong-chay/item/11...